CHÚC MỪNG NĂM MỚI!
Thân mời các bạn cựu học sinh Trường trung học tư thục Tây Sơn – Qui Nhơn, niên khóa: 1968-1975 đến tham dự ngày họp mặt đầu năm Bính Thân.
Vào lúc: 8h00 mùng 6 tết Bính Thân nhằm ngày Thứ Bảy, 13/02/2016.
Địa điểm họp mặt: Nhà vườn của vợ chồng Thành – Luyến Ái tại cầu số 7, chợ Dinh, Tp. Qui Nhơn.
Mọi thông tin để biết thêm xin liên lạc các số phone của các bạn: Luyện, Luật, Thảo, Đan…(bên trang DANH SÁCH 12AB NK: 68/75)
Chúc các bạn năm mới Bính Thân an khang, thịnh vượng và vạn sự như ý
28.01.2016
Posted by Trần Ngọc Luyện |
Bài viết, Họp mặt | hopmat, tayson12ab, trunghoctayson, xuanbinhthan |
3 bình luận
Ở Nhật Bản, người ta không bao giờ nhìn thấy cảnh người ăn xin lang thang trên đường phố, không phải vì ở Nhật không có người nghèo, vậy thì lý do tại sao dù có túng thiếu thì người Nhật vẫn không bao giờ đi ăn xin?
Bến tàu Edogawa là nơi cư trú của nhiều người vô gia cư Tokyo.
Nhật Bản là một cường quốc phát triển bậc nhất thế giới, người Nhật nổi tiếng là những “con ong” chăm chỉ cần cù, nhưng không phải vì thế mà đất nước này không có người nghèo, dù có là cường quốc giàu có thì đất nước nào cũng có những người vô gia cư, thiếu ăn từng bữa. Thế nhưng, tuyệt nhiên không bao giờ thấy bóng của những người ăn xin trên đường phố nước Nhật. Lý do là gì vậy?
“Tokyo không có cảnh người tàn tật ra đường ngửa tay xin tiền, thậm chí cũng không có đứa trẻ nào ngả mũ xin ăn. Tuy nhiêu nhiều người dân Nhật Bản đã từ chối nhận trợ cấp từ chính sách nhân đạo bởi vì họ cảm thấy làm vậy mình sẽ mất đi lòng tự trọng hay nhân phẩm của bản thân”.
Người Nhật Bản không ăn xin cho dù họ có thiếu thốn đến đâu, khác hẳn ở nhiều nơi trên thế giới này.
Một câu chuyện được kể lại khiến nhiều người phải suy ngẫm về lòng tự trọng của người Nhật:
“Vào một tối trời mưa phùn ở Tokyo không khác gì miền nam Trung Quốc, tôi về nhà hơi trễ. Trên đường về tôi gặp một ông lão cao tuổi đang đi chiếc xe đạp cũ kỹ, đằng sau xe chở một túi to chất đầy vỏ đồ hộp đã dùng hết. Trong đầu tôi bỗng hiện lên cảnh ngày mai khi mọi người vứt đồ đã dùng xong vào thùng rác, ông lão già nua này sẽ nhanh chóng tới thu lượm ve chai, cũng giống như khi ông tìm đến các nhà hàng để thu lượm vỏ đồ hộp người ta thải ra.
Hôm nay có lẽ là ngày hiếm hoi mà ông lão may mắn khi kiếm được nhiều vỏ lon như vậy. Trong thời tiết mưa phùn thế này, ông ấy sẽ có đủ tiền mua vài gói mỳ ăn liền, hai miếng đậu phụ, một chai rượu sa kê, ngồi dưới mảnh vải nhựa là nhà để thưởng thức món ăn xa xỉ và ngon miệng này.
Ông ấy là một người lang thang không nhà cửa, không nơi nương tựa. Theo số liệu thống kê, Tokyo có khoảng 2.000 người vô gia cư như ông.
Hè năm ngoái, tôi có dịp đến thăm bến tàu Edogawa tại Tokyo, là dịp để ngắm nhìn “nhà” của người vô gia cư. Mỗi khi có mưa, xung quanh bến tàu lại khá sạch sẽ, cạnh đó có một mảnh đất công để không nên những người vô gia cư chọn trú ngụ tại đây.
Nhà của họ đơn sơ với tấm nilon dày màu xanh da trời che phủ ở trên. Ai cũng có một cái giường nhỏ, một chiếc vô tuyến, nồi cơm nhỏ và vài đồ dùng lặt vặt khác. Tôi không biết làm sao họ có được một chiếc máy phát điện nhỏ.
Hàng ngày người vô gia cư ở Tokyo đi lượm ve chai tại các ga tàu điện, nhặt báo do người khác đọc xong ném vào thùng rác hoặc vứt luôn ở ghế ngồi. Gần ga tàu điện cũng có một quầy bán tạp chí đã ra vài ngày trước đó với mức giá chỉ bằng nửa giá bìa cho những ai muốn giết thời gian. Và tất nhiên không có thanh tra nào tại Tokyo đi kiểm tra việc này.
Đa phần người vô gia cư đều đã cao tuổi, số ít ở lứa tuổi trung niên. Họ có thể từng là nhân viên văn phòng, tự doanh hoặc chủ doanh nghiệp nhỏ, nhưng vì một lý do nào đó, cuộc đời họ đi theo lối rẽ này để sống trên đường phố.
Ông lão cho biết hiện giờ ông hài lòng về cuộc sống thong dong không ràng buộc một năm qua.
Chính phủ Nhật Bản có chính sách đãi ngộ đặc biệt cho người ngoài gọi là “trợ cấp nhân sinh”. Người nghèo không đủ điều kiện sinh tồn có thể đến chính quyền địa phương để xin trợ cấp dưới chính sách này.
Tại Tokyo, chính sách “trợ cấp nhân sinh”hàng tháng sẽ hỗ trợ người vô gia cư hay người nghèo 120.000 Yên (gần 1.000 USD), đủ để trang trải cuộc sống ở mức tối thiểu. Tuy nhiên nhiều người dân Nhật Bản đã từ chối nhận trợ cấp từ chính sách nhân đạo bởi vì họ cảm thấy làm vậy mình sẽ mất đi lòng tự trọng hay nhân phẩm của bản thân.
Tôi cũng chưa bao giờ thấy một người ăn xin nào ở Tokyo, không có cảnh người tàn tật ra đường ngửa tay xin tiền, thậm chí cũng không có đứa trẻ nào ngả mũ xin ăn. Nhật Bản là đất nước không có người ăn xin, một hòn đảo với những điều thật khác thường so với nhiều nước khác.
Khi tôi hỏi giáo sư xã hội học Shimada tại đại học Keio, ông ấy trả lời rất đơn giản: “Thứ nhất, người Nhật Bản rất tự trọng, họ thà chết đói còn hơn xin của bố thí. Thứ hai, những người ăn xin luôn là đối tượng bị coi thường nhất ở đất nước Mặt trời mọc và cuối cùng, tinh thần võ sĩ đạo Samurai của Nhật Bản không cho phép họ làm vậy. Họ luôn ghi nhớ một quan niệm truyền thống: Một người cho dù đến bước đường cùng cũng không bao giờ nhụt chí”.
HP chuyển
Nguồn: Kim Sơn <lamtuvi@gmail.com>
24.11.2015
Posted by Trần Ngọc Luyện |
Bài viết | nhatban, vogiacu |
1 bình luận
Tác giả: Trần Văn Thọ
Hình trái: Saigo Takamori ; phải: Katsu Kaishu
Hội đàm Saigo-Katsu ở đền Atago, ngoại thành Edo
Trước khúc ngoặt của lich sử, vận mệnh đất nước và dân tộc tất nhiên tùy thuộc vào hành động của nhũng người có trách nhiệm. Dĩ nhiên tiên đề là phải có tinh thần yêu nước, có ý chí, có ý thức trách nhiệm, nhưng nếu không đủ trí tuệ, không có đầu óc linh hoạt cảm nhận ngay được cái mới để từ bỏ nhanh những tư tưởng lỗi thời thì sẽ đưa ra những quyết định sai lầm hoặc bỏ mất thời cơ.
Vào giữa thế kỷ 19, Nhật Bản là một nước phong kiến, bế quan tỏa cảng, xã hội phân chia thành các giai cấp sĩ, nông, công, thương và chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Thế rồi chiến thuyền Mỹ của đô đốc Perry xuất hiện ở vịnh Edo năm 1853 đã khuấy động cả xã hội phẳng lặng đó. Nhưng chỉ có 15 năm (Minh Trị duy tân bắt đầu năm 1868), các sĩ phu, các lãnh đạo của Nhật đã biến một đất nước phong kiến bảo thủ trở thành một nhà nước tiếp thu toàn diện thế giới văn minh để tiến lên hàng các quốc gia thượng đẳng. Ý chí, trí tuệ và sự chuyển dịch tư tưởng rất nhanh của những lãnh đạo thời đó đã xoay chuyển đất nước một cách ngoạn mục với một tốc độ có thể nói là kỳ diệu.
Thời đại Edo ở Nhật kéo dài từ năm 1603 đến năm 1867. Quyền cai trị đất nước tập trung vào chính quyền Mạc Phủ đóng tại Edo (Tokyo ngày nay) do các tướng quân của dòng họ Tokugawa nối tiếp nhau lãnh đạo. Thiên hoàng (đóng đô ở Kyoto) chỉ có vai trò tượng trưng. Cả nước chia thành 277 phiên (han), mỗi phiên có một lãnh chúa (daimyo) đứng đầu. Cứ hai năm một lần các lãnh chúa phải về Edo chầu tướng quân, một quy chế lập ra để duy trì sự trung thành của các phiên đối với Mạc Phủ. Tuy nhiên từ đầu thế kỷ 19, một số phiên ở phía tây nam mạnh lên về kinh tế và quân sự nên sự gắn bó với Mạc Phủ yếu đi. Hai phiên mạnh nhất thời đó là Satsuma (tỉnh Kagoshima ngày nay) và Choshu (Yamaguchi ngày nay). Về đối ngoại, chính quyền Edo theo chính sách bế quan tỏa cảng, chỉ cho ngoại lệ là cảng Nagasaki được giao thương với nước ngoài.
Năm 1853, hạm đội Mỹ do đô đốc Perry dẫn đầu ghé cảng Uraga ở vịnh Edo, yêu cầu Mạc Phủ mở cửa giao thương. Cả xã hội náo động vì sự kiện này. Đến năm 1858, Perry lại đến và yêu cầu ký kết các hiệp ước bất lợi cho Nhật với hai nội dung chính là Nhật mất chủ quyền về thuế quan (không được dùng thuế quan để bảo hộ sản phẩm trong nước khi mậu dịch với nước ngoài) và không có quyền tài phán đối với người nước ngoài cư trú tại Nhật. Chính quyền Mạc Phủ sợ các nước phương tây gây chiến nên đồng ý ký các hiệp ước đó. Ngoài Mỹ, các nước khác như Pháp, Anh, Hoà Lan, Nga cũng ép Nhật ký các hiệp ước tương tự.
Lúc đó chính trị Nhật rối bời và chia ra nhiều phe có các lập trường khác nhau. Đối nội có 2 quan điểm: “tôn vương” (chủ trương dành thực quyền về cho thiên hoàng) hay duy trì thể chế cũ (do Mạc Phủ cai trị); đối ngoại cũng có hai quan điểm: bài ngoại (nhương di) hay khai phóng (mở của giao thương và học tập nước ngoài). Như vậy kết hợp lập trường đối nội và đối ngoại có tới 4 phe phái. Đặc biệt hai phiên mạnh nhất Satsuma và Choshu lúc đầu có tư tưởng bài ngoại, quyết chống Tây phương bằng vũ lực. Nhưng về mặt đối nội thì hai bên có lập trường khác, Satsuma ủng hộ Mạc Phủ trong khi Choshu thì tôn vương. Do khác nhau về chính sách đối nội, hai phiên này mâu thuẫn nhau, có lúc xảy ra giao tranh khi Satsuma vâng lệnh Mạc Phủ cử binh đi chinh phạt Choshu.
Sang thập niên 1860, tình hình biến chuyển theo một hướng hoàn toàn mới.
Năm 1863, do chính sách bài ngoại, Satsuma đã bắn vào thương thuyền của Anh và chiến tranh xảy ra. Nhưng với vũ khí tối tân, Anh đã thắng dễ dàng. Cũng trong thời gian đó, Choshu tấn công thương thuyền của Mỹ, Pháp và Hoà Lan tại eo biển Kanmon. Ba nước phản kích và Choshu thua ngay. Sau dịp thử sức này, cả Satsuma và Choshu nhận thấy không thể đối đầu với Tây phương bằng quân sự mà phải có chiến lược khác. Cùng lúc đó ý kiến của các nhà tư tưởng như Yoshida Shoin và Takasugi Kensaku ngày càng được chú ý. Yoshida cho rằng không biết người thì làm sao thắng được người trong các cuộc tranh chấp. Takasugi, học trò của Yoshida, triển khai ý ấy thành chính sách cụ thể “phải học tập nước ngoài mới có ngày thắng được nước ngoài”. Takasugi cũng là người được Choshu cử đi gặp đại diện các nước Mỹ, Pháp và Hoà Lan để xin hoà sau cuộc xung đột ở eo biển Kanmon.
Với sự chuyển hướng của hai phiên mạnh nhất, khuynh hướng hoà hoãn với nước ngoài và học tập văn minh tây phương dần dần chiếm ưu thế. Vấn đề còn lại là đối nội: thế lực nào sẽ lãnh đạo trong thời đại học tập nước ngoài để xây dựng đất nước? Tại phiên Satsuma, với sự chuyển giao thế hệ lãnh đạo sang những người trẻ như Saigo Takamori và Ohkubo Toshimichi, hai người mà sau này giữ vai trò nòng cốt trong việc xây dựng thời đại Minh Trị, ý thức ủng hộ Mạc Phủ ngày càng phai nhạt và dần dần họ thấy phải đoàn kết chung quanh thiên hoàng, biểu tượng cho sự thống nhất dân tộc, mới đưa đất nước vào giai đoạn mới.
Vào thời điểm đó, sự xuất hiện của Sakamoto Ryoma, một chí sĩ thuộc phiên Tosa (Kochi ngày nay), trên vũ đài chính trị rất đúng lúc. Lúc 18 tuổi (năm 1853) trên đường từ Tosa lên Edo để học kiếm thuật, Sakamoto đã tận mắt chứng kiến hạm đội hiện đại của Perry, cảm nhận sức mạnh của phương Tây và thấy Nhật phải thay đổi mới thoát được nguy cơ bị thực dân hóa. Tương truyền rằng sau đó ông đã tìm đọc hết những sách kinh điển của các nước tây Âu vừa mới được dịch sang tiếng Nhật. Chuyện kể rằng ông đã nói với người bạn đồng hương lâu ngày mới gặp lại rằng “vũ khí quan trọng của thời đại bây giờ không phải là thanh gươm cây kiếm, cũng không phải là súng ống mà là cái nầy đây” (ông rút trong túi ra đưa cho bạn xem cuốn Vạn quốc công pháp vừa được phát hành (năm 1865), đây là cuốn sách dịch từ cuốn Elements of International Law của Henry Wheaton.
Sakamoto nhận thấy Mạc Phủ không còn uy tín và năng lực để lãnh đạo đất nước trong thời đại mới nên đã vận động quy tụ thế lực mới mà bắt đầu bằng việc điều đình để hai phiên mạnh nhất là Satsuma và Choshu làm hoà với nhau. Kết cuộc ông đã thành công và đồng minh Satsuma-Choshu ra đời. Họ đã liên hiệp với hai phiên khác là Tosa và Hizen (Saga ngày nay) tạo thành lực lượng tôn vương mạnh mẽ. Saigo Takamori trở thành chỉ huy trưởng của lực lượng nầy.
Trước sức mạnh của phe tôn vương, tướng quân đương thời và cũng là tướng quân cuối cùng của Mạc Phủ là Yoshinobu thỏa hiệp bằng cách trả lại thực quyền cho thiên hoàng (tháng 10/1867) với hy vọng tham gia chính phủ mới trong đó quyền lợi của Tokugawa được duy trì. Tuy nhiên kết cuộc phía Tokugawa thấy mình bị mất quá nhiều quyền lợi, chẳng hạn phải giải tán quân đội đã có từ trước, nên đã đem quân chống lại phía thiên hoàng. Cuộc nội chiến kéo dài gần nửa năm, cuối cùng Tokugawa suy yếu phải rút quân về cố thủ thành Edo. Tướng giữ thành lúc đó là tổng đốc lục quân Katsu Kaishu. Quân đội phía thiên hoàng do Saigo Takamori chỉ huy tiến về Edo chuẩn bị vây thành.
Trước khả năng nước ngoài tìm cách thôn tính Nhật, những nhà lãnh đạo hai bên Mạc Phủ và thiên hoàng phải có quyết định để tránh tổn thất lớn cho đất nước. Cuối cùng, phân tích lực lượng hai bên và tình hình thế giới, và suy nghĩ về tương lai đất nước, tướng Katsu đã đi đến quyết định là phải đầu hàng quân đội thiên hoàng mới cứu được nước Nhật ra khỏi thảm họa. Ông thuyết phục phe chủ chiến trong thành và hứa sẽ đưa ra các điều kiện đầu hàng không phương hại đến tính mạng và tài sản tối thiểu của gia đình, thân tộc và quan lại của Mạc Phủ.
Cuộc đàm phán giữa hai tướng Saigo và Katsu đã diễn ra thuận lợi ngoài dự tưởng của Katsu, nhất là thái độ rất hoà nhã và khiêm tốn của Saigo đối với người chiến bại đã làm phía Tokugawa thấy yên tâm và không hề có mặc cảm của người thất thế. Phía tướng Katsu cũng trình bày nội tình của phe Tokugawa với thái độ chân thành. Saigo đã đồng ý các điều kiện đầu hàng. Ông đã về thuyết phục những người chủ chiến phía thiên hoàng. Với uy tín của Saigo mọi người đã chấp nhận chấm dứt chiến tranh theo kết quả cuộc hội đàm của Saigo và Katsu. Lịch sử đã ghi lại sự kiện nầy bằng 4 chữ Vô huyết khai thành (mở của thành đầu hàng để tránh đổ máu). Tướng quân Yoshinobu được cho về sống cuộc đời ẩn dật tại Shizuoka (gần núi Phú sĩ). Những người tài giỏi của thời Tokugawa được chính quyền Minh Trị mời cộng tác. Đặc biệt tướng Katsu được mời làm bộ trưởng hải quân vì ông nguyên là chuyên gia về kỹ thuật quân sự tây phương, am hiểu nghệ thuật cầm quân trên biển. Hải quân của Nhật được cận đại hóa và sau nầy giành thắng lợi trong chiến tranh Nhật Nga (1905) một phần to lớn có công lao của Katsu, nói rộng ra là nhờ chính sách đặt lợi ích dân tộc lên trên hết của những người lập ra chính quyền Minh Trị nên những người tài của chế độ cũ được trọng dụng.
Vài tháng sau sự kiện vô huyết khai thành, Edo được đổi tên là Tokyo (tháng 7/1868) và sau đó ít lâu Minh Trị thiên hoàng dời đô từ Kyoto về Tokyo (tháng 10/1868), đánh dấu một thời đại mới.
Như vậy chỉ trong vòng 15 năm Nhật Bản đã làm được cuộc cách mạng đưa đất nước vào kỷ nguyên mới. Có thể tóm tắt những yếu tố làm nên kỳ tích này.
Thứ nhất, các sĩ phu, các lãnh đạo thời đó đã đặt tiền đồ, vận mệnh đất nước lên trên hết nên đã thỏa hiệp nhanh chóng. Họ đã khôn khéo dùng thiên hoàng làm biểu tượng để dễ thống nhất các lực lượng vốn đã phân tán do chế độ phiên trấn thời Mạc Phủ. Trước nguy cơ bị nước ngoài thống trị, dù với lập trường nào, họ cũng cảm thấy trách nhiệm với đất nước nên đã giải quyết các tranh chấp nội bộ rất nhanh, đã không kéo dài các cuộc nội chiến làm hao tổn nội lực.
Thứ hai, những sĩ phu, những lãnh đạo của Nhật thời đó thức thời nhanh chóng nên đã thay đổi chiến lược một cách ngoạn mục. Mới đánh một trận họ đã nhận ngay ra được sức mạnh quân sự của Âu Mỹ, mới đọc một số sách vở đã ngộ ra được sức mạnh của văn minh phương Tây và thấy là mình phải học hỏi để canh tân đất nước. Đằng sau những phán đoán chính xác và thay đổi chiến lược kịp thời nầy là tinh thần và nỗ lực học hỏi, tìm hiểu nguồn gốc sức mạnh của những người, những thế lực mới lạ đến từ phương Tây.
Ngày nay với tiến bộ của khoa học về phương tiện đi lại và liên lạc, việc tiếp xúc học hỏi với bên ngoài quá dễ dàng. Tuy nhiên không ít trường hợp lãnh đạo của nhiều nước phải mất hàng chục năm mới thực hiện được vài cải cách, mất hàng nửa thế kỷ hay lâu hơn mới thay đổi được tư duy, chiến lược cần thiết để đất nước phát triển./.
Tokyo trước thềm năm 2015
Nguồn: http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/toc-do-xoay-chuyen-van-menh-dat-nuoc-ky-tich-cua-cac-anh-hung-thoi-minh-tri-duy-tan
29.09.2015
Posted by Trần Ngọc Luyện |
Bài viết, Web hay | japan, lichsu, minhtrithienhoang |
Bình luận về bài viết này
Tác giả: Phạm Đạt Nhân
Cha dạy con trong Quốc văn giáo khoa thư – Ảnh: TL
Miền Nam trước 75 đã chọn triết lý giáo dục là Dân tộc – Nhân bản – Khai phóng. Vì đề cao tinh thần dân tộc mà trong giờ địa lý, học sinh nào vẽ bản đồ Việt Nam mà thiếu hai quần đảo Trường Sa và Hoàng sa sẽ bị phạt nặng; ở phòng học nào cũng có treo câu khẩu hiệu: “Tổ quốc trên hết”…
Sách giáo khoa và kinh điển nói chung là cái hồn cái hạnh của giáo dục. Một công dân đã từng cắp sách đến trường đều có mang trong huyết quản cái hồn cái hạnh từ những trang sách giáo khoa – nghĩa là đã hấp thu trong tâm hồn một nền giáo dục chân chính. Tình yêu gia đình, nghĩa gia tộc, tình yêu quê hương đất nước đã từng được di dưỡng tưới tẩm từ thuở học trò. Nhà thơ Giang Nam có mấy câu thơ nói lên tầm ảnh hưởng của sách giáo khoa đối với tình yêu quê hương:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
Ai bảo chăn trâu là khổ
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những “trang sách nhỏ” đã hun đúc tình yêu quê hương của nhà thơ chính là bộ “Quốc văn giáo khoa thư” do học giả Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận biên soạn. Bộ sách nầy được chính thức giảng dạy ở các trường Tiểu học vào những thập niên tiền bán thế kỷ XX. Nhà văn Sơn Nam trong cuốn Hương rừng Cà Mau có kể câu chuyện “tình nghĩa giáo khoa thư” thật cảm động .
Chuyện kể một ông phái viên nhà báo được tòa soạn cử đi đòi nợ một độc giả mua báo dài hạn ở tận vùng xa xôi hẻo lánh. Nhà báo và độc giả qua một đêm tâm tình tương đắc và đồng cảm những bài học trong sách “Quốc văn giáo khoa thư” mà cả hai đã thuộc nằm lòng từ thuở nhỏ đã khiến sáng hôm sau nhà báo lên đường trở về tỉnh thành mà không hề đề cập đến chuyện tiền nong với anh độc giả nghèo yêu sách báo. Nhưng anh độc giả nọ đã chủ động nhắc món tiền nợ báo và xin được trả nợ bằng những sản vật hiện có trong nhà. Đọc “Tình nghĩa giáo khoa thư” người đọc cảm thấy hạnh phúc khi tìm lại chính mình qua từng trang sách nhỏ. Bộ “Quốc văn giáo khoa thư” gồm có ba quyển:
-Quốc văn giáo khoa thư lớp sơ đẳng
-Quốc văn giáo khoa thư lớp dự bị
-Luân lý giáo khoa thư lớp đồng ấu
Ảnh: TL
Riêng luân lý giáo khoa thư chuyên đề dạy về phong hóa, lễ giáo cho học sinh từ thuở còn thơ. Đây là quyển sách giáo khoa lớp khai tâm dạy làm người. Đây cũng là nền tảng văn hóa Việt và đây cũng là trường hợp giáo dục đã làm tốt nhiệm vụ kép: vừa xây dựng cơ sở văn hóa cho ngày mai thụ hưởng; vừa vun bồi tưới tẩm truyền thống tốt đẹp của ngày hôm qua. Tôi xin được dẫn ra đây một số bài học luân lý trong quyển giáo khoa nầy: Thương yêu kính trọng ông bà cha mẹ, thương yêu nhường nhịn anh chị em; thờ cúng tổ tiên; giúp đỡ người trong họ, thương yêu tôi tớ trong nhà; yêu thương thầy dạy, tôn kính thầy dạy…
Những bài học trên đây có thể ngày nay nhiều người cho rằng không còn hợp thời nữa. Nhưng có những việc “biết rồi khổ lắm nói mãi”. Nói mãi hóa nhàm mà làm mãi vẫn chưa xong. Ngay đến những người lớn tuổi cả những kẻ thành đạt trong cuộc sống, nếu một ngày tự soi sẽ thấy mình còn vô vàn thiếu sót.
“Quốc văn giáo khoa thư” và Luân lý giáo khoa thư” được NXB Trẻ cho in lại – Ảnh: TL
Một trong tám chữ học làm người (hiếu, để, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sĩ) chữ ‘hiếu’ đứng hàng đầu, chữ ‘để’ đứng hàng thứ hai. Hiếu là bổn phận đối với ông bà cha mẹ. ‘Để’ là trên kính dưới nhường – anh chị em trong nhà phải hòa hợp, nhường nhịn, thuận thảo cùng nhau. Quan điểm của các soạn giả “Quốc văn giáo khoa thư “ là làm sao thể hiện được nét văn hóa đặc thù của Người Việt: lấy gia đình làm nền tảng cho xã hội, quốc gia, dân tộc. Một đứa trẻ không biết yêu thương ông bà cha mẹ, anh chị em trong nhà thì lấy gì bảo đảm rằng khi lớn lên nó biết yêu quê hương, đất nước, đồng bào, đồng loại? Gia đình, gia tộc là cái nôi của tình yêu thương và cũng là nơi trú ẩn an toàn nhất khi gặp phong ba bão tố trong cuộc đời.
Xưa, có một bức tranh vẽ cảnh gia đình một nhà sum họp có tựa đề “Buổi tối trong gia đình”: cha ngồi đọc báo, mẹ ngồi khâu vá, con học bài, bà kể chuyện cổ tích cho cháu. Trong bài thơ “Lượm” có câu thơ “Ở đồn Mang Cá / Thích hơn ở nhà” của Tố Hữu ca ngợi những đứa trẻ thoát ly gia đình… chỉ thích hợp với giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ!
Thời bây giờ tuổi trẻ ít gần gũi gắn bó với gia đình, không coi trọng các mối quan hệ trong thân tộc là do sách giáo khoa khai tâm thiếu những bài học đề cao tinh thần gia đình! Thậm chí đêm giao thừa là thời điểm thiêng liêng nhất để gia đình sum họp tiễn năm cũ, đón năm mới mà cũng không còn giữ được nếp xưa. Ngày nay, đêm giao thừa ta thấy thanh niên thiếu nữ tập trung ở các lễ hội (hội nhiều hơn lễ). Lễ lại chỉ là cái cớ để tụ họp vui chơi múa hát. Nếu giao thừa mà cả nhà ăn mặc tươm tất, sửa soạn bàn thờ ông bà, chuẩn bị cúng tổ tiên rồi sau đó là mừng tuổi chúc tết lẫn nhau … thì theo người viết, thế mới gọi là đậm đà bản sắc dân tộc.
Vậy phải chăng nói đến văn hóa là phải đề cập đến nhiệm vụ kép của giáo dục: nhiệm vụ xây dựng cơ sở văn hóa cho thế hệ mai hậu thụ hưởng, đồng thời bảo tồn di sản văn hóa của tiền nhân để lại?…
Nguồn: http://motthegioi.vn/van-hoa-giai-tri/van-hoa/giao-duc-tu-moi-yeu-thuong-gia-dinh-den-tinh-than-to-quoc-tren-het-93220.html
10.08.2015
Posted by Trần Ngọc Luyện |
Bài viết, Giáo dục | giaoduc, trietlygiaoduc |
Bình luận về bài viết này
TTO – Viết về nhân vật A phải “cao cả”, tả về cô giáo nhất định phải dáng thon, tóc dài…Học sinh không dám đánh cược cảm xúc thật sự với điểm số trong kì thi quan trọng.
Kì thi THPT quốc gia 2015 tiếp tục cho ra đời nhiều bài văn lạ của học sinh.
Nhiều người bật cười vì lời văn ngô nghê, hoặc thở dài trước những câu văn công nghiệp, rập khuôn, mười bài như một. Bên cạnh đó là cách thể hiện cảm xúc của học sinh trong những câu nghị luận xã hội na ná nhau, không có chính kiến và tính phản biện.
Nhiều ý kiến đề nghị: “Đừng biến môn Văn thành môn tập chép. văn mẫu làm học sinh nói dối, khiến các em “tự nhiên” với những lời “nói dối” trong tương lai”.
Cảm xúc đánh cược với điểm số, ai dám?
“Nhiều khi cũng muốn viết theo những gì bản thân nghĩ nhưng mà viết kiểu đó thì điểm không cao nên thành ra phải viết theo dàn ý có sẵn. Nhất là đi thi tốt nghiệp, nhỡ viết sai so với đáp án bị điểm liệt thì ai chịu trách nhiệm?”, bạn Ngọc Hân (17 tuổi, Nha Trang) nói.
Phụ huynh Thu Hương kể: Con tôi học lớp 12, cô giáo môn văn bắt buộc trong bài luận phải mang ý tưởng của cô thì mới có điểm, con tôi phát biểu “văn là cảm xúc mà cô” liền bị cho điểm 3 không thương tiếc (dù cháu là học sinh giỏi văn 11 năm).
Bạn Bảo Bình (Đồng Nai) chia sẻ một câu chuyện mà bạn nhớ mãi về môn văn lớp 7 của mình: Cô giáo ra đề: “Theo em, điều gì là quý giá nhất trong cuộc sống, hãy chứng minh”. Sau đó cô hỏi ý kiến cả lớp, nhiều ý kiến đưa ra như sức khỏe, lúa gạo, tiền bạc, hạnh phúc, tự do…Nhưng cuối cùng cô giáo chốt lại “theo cô, sức lao động là quý nhất”. Sau đó cả lớp 42 học sinh đều làm bài “sức lao động là quý nhất” theo ý cô giáo.
Thầy Nguyễn Thanh Huy, dạy văn tại trường THPT Bùi Thị Xuân (TP.HCM), cho rằng trước áp lực thi cử phải có điểm số, nhất là kì thi quan trọng như tốt nghiệp, không học sinh nào dám đem những xúc cảm cá nhân thật sự vào bài thi nếu điều đó làm ảnh hưởng đến điểm số của mình.
“Đối với những bài viết trong lớp, học sinh có thể sáng tạo thoải mái, nhưng trước những kì thi quan trọng, giáo viên đều phải hướng dẫn học sinh những cách thức cơ bản nhất để bài làm đúng đáp án và đạt được điểm số cao”, thầy Huy chia sẻ.
Học văn hay học photocopy?
Nhiều học sinh thừa nhận, sau 12 năm học, đa số các em được học theo văn mẫu là chính.
Thầy Nguyễn Thanh Huy cho rằng thực trạng học sinh dần xa lánh, đôi khi sợ hãi môn văn xuất phát từ việc các em không được bày tỏ cảm xúc thật sự của mình. Việc phải thể hiện quan điểm theo cách nhìn có sẵn làm cho các em chán ngán, từ đó biến mình thành những cỗ máy tập chép và photo cảm xúc cho an toàn.
Cô Hồ Khánh Vân, giảng viên ngành Văn học ngôn ngữ Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM, cho rằng, lỗi một phần thuộc về giáo viên và học sinh.
Nhiều giáo viên dạy văn vẫn theo tư duy mình được học phổ thông đem dạy lại cho học sinh, đi theo lối mòn và lười sáng tạo.Thậm chí nhiều đồng nghiệp của cô Vân cũng ít cho học sinh bày tỏ quan điểm riêng mà vẫn chủ yếu theo ý kiến có sẵn trong sách hướng dẫn và giáo viên xem đó là căn cứ đánh giá, chấm điểm.
Học sinh cũng theo đó mà thụ động, không tư duy, ít chịu bày tỏ ý kiến của mình về tác phẩm hay vấn đề xã hội mà phần nhiều chọn cách làm theo hướng dẫn của thầy cô để hoàn thành bổn phận.
Cô Hồ Khánh Vân đánh giá hệ thống giáo dục đang gặp nhiều vấn đề nhưng chưa có những giải pháp triệt để.
Chương trình giảng dạy còn nặng nề, giáo viên và học sinh phải tải mấy chục tác phẩm trong một năm với thời lượng ít ỏi, không đủ để các em tìm hiểu và yêu thích tác phẩm.
Học sinh ít có sự lựa chọn tác phẩm văn học mình yêu thích để phân tích và tìm hiểu mà phải theo những tác phẩm có sẵn trong sách giáo khoa.
Cô Khánh Vân cho rằng trong những năm qua dù cách ra đề và chấm thi đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn chưa triệt để và đạt được những hiệu quả như mong muốn. Mọi thứ vẫn còn đang lẩn quẩn trong chuyện đọc – chép và cách tư duy sáo mòn của việc cảm thụ môn văn.
|
Sĩ tử Nghệ An ra về sau khi làm xong phần thi môn văn tại điểm thi Trường ĐH Vinh, Nghệ An – Ảnh: Doãn Hòa |
Tương lai nào cho môn văn?
Một cô giáo dạy văn hơn 20 năm (giấu tên) chia sẻ rằng những năm qua, đề thi có đổi mới theo hướng mở nhưng cách chấm vẫn theo những barem gợi ý có sẵn, thậm chí với cả nghị luận xã hội.
Học sinh không thể nào làm khác đi. Có thể các em có những suy nghĩ khác nhưng cuối cùng vẫn chọn phương án an toàn.
Bản thân giáo viên, đôi khi rất muốn hướng học sinh tư duy sáng tạo, nhưng họ không thể vượt ra khuôn khổ. “Mình dạy học trò làm khác đi, đến khi thi, các em bị điểm thấp thì giáo viên làm sao gánh trách nhiệm”, cô giáo này chia sẻ
Thầy Nguyễn Thanh Huy đề xuất hãy để cho giáo viên và học sinh được tự do lựa chọn tác phẩm văn học yêu thích và cùng tìm hiểu về nó. Bộ GDĐT chỉ cần ra định hướng, phân chia từng mốc thời gian trong năm giáo viên sẽ giảng dạy những đề tài nào (ví dụ văn học lãng mạn, yêu nước…), việc còn lại hãy để giáo viên và học sinh thoải mái trong việc bày tỏ cảm xúc, nhìn nhận, đánh giá tác phẩm.
PGS.TS Đoàn Lê Giang, trưởng khoa Văn học ngôn ngữ Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM, cho biết những đổi mới trong giáo dục đối với môn văn chủ yếu là bồi dưỡng khả năng ngữ văn sẵn có của học sinh và thứ hai là đào tạo nhân cách.
Chúng ta đang hướng cho học sinh thể hiện tư duy văn chương theo cảm nhận có chiều sâu và sáng tạo, khuyến khích tính trung thực trong nhìn nhận và đánh giá vấn đề.
Tuy nhiên qua quá trình chấm thi tốt nghiệp PTTH vừa qua, PGS.TS Đoàn Lê Giang vẫn nhìn nhận, thực trạng chưa được cải thiện nhiều.
Học trò là sản phẩm của giáo dục, của nhà trường, thế nên trách nhiệm phải thuộc về giáo dục, giáo viên, những người làm công tác quản lý.
Ông Giang nhấn mạnh hệ thống giáo dục Việt Nam cần phải thay đổi toàn diện và sâu sắc hơn nữa, cần những đổi mới mang tính thực chất để thay đổi thật sự chất lượng giáo dục.
Và riêng với môn văn, phải làm sao để các em yêu văn và cảm nhận văn học sâu sắc, tự nguyện chứ không phải thái độ học đối phó và sợ môn Văn như hiện nay.
Nguồn: http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/tieu-diem/20150728/dung-day-hoc-sinh-noi-doi-nua/783933.html
28.07.2015
Posted by Trần Ngọc Luyện |
Bài viết, Giáo dục | caicachgiaoduc, kythi thpt |
Bình luận về bài viết này
Tác giả: Phan Nam Sinh
TTCT – Cha tôi là nhà báo – nhà văn Phan Khôi. Ông sinh ngày 6-10-1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn (Quảng Nam) và mất tại Hà Nội ngày 16-1-1959, thọ 72 tuổi.
|
Nhà báo – nhà văn Phan Khôi – Ảnh tư liệu
|
Hồi đó, phương tiện liên lạc chưa hiện đại như bây giờ nên mãi gần một ngày sau tôi mới nhận được tin. Tôi lẽo đẽo cuốc bộ từ Trường Học sinh miền Nam số 24 ở Hải Phòng, nơi tôi đang theo học, tới Trường Học sinh miền Nam số 6 cách đó hơn một cây số để báo tin cho em gái. Hai anh em tôi leo lên một chiếc xe con màu đen, chẳng biết hiệu gì, chỉ nhớ nó thấp lè tè, dè nhô ra. Ngồi trên xe, em tôi nghĩ gì không biết, chỉ nghe tiếng thút thít, thỉnh thoảng lại nấc lên. Còn tôi có lẽ vì là con trai và nhiều tuổi hơn, vả lại điều mất mát vừa xảy ra cho gia đình tôi tuy quá lớn nhưng không hẳn là bất ngờ nên tôi chỉ âm thầm chịu đựng và chua xót. Chua xót cho thân phận một con người, cho cuộc đời đầy sóng gió của cha tôi.
Những câu đối dâng cha
Hoạt động báo chí của ông, tôi cũng mới biết qua mấy bài báo ông viết trước cách mạng mà mỗi dịp hè tôi được đọc từ bản chép tay do ông sao lại từ báo chí mượn ở các thư viện lớn của Hà Nội. Đó là các bài: Dân quạ đìnhcông, Tình già, Một lối Thơ mớitrình chánh giữa làng thơ, Chuyện bà cố tôi,Xóa một cái án trong lịch sử: Thân oan cho Võ Hậu, Đọc cuốn Nho giáo của ông Trần Trọng Kim…Lúc bấy giờ, không hiểu sao mọi suy nghĩ của tôi cứ đổ dồn về cuộc đời hơn bốn mươi năm bôn ba làm báo, viết văn của ông. Thật ra cho tới lúc ấy, tôi chưa biết gì nhiều về đời tư của cha ngoài tính nghiêm khắc mà mẹ và các anh chị tôi thường kể, bởi tuy đã 19 tuổi nhưng tôi chỉ sống với ông chưa đến bốn năm, mà mỗi năm cha con chỉ gặp nhau chừng nửa tháng vào mỗi dịp hè hoặc tết.
Chỉ với chừng ấy thôi, chưa phải nhiều nhặn gì so với hàng ngàn bài báo mà ông đã viết nhưng trong tôi đã hình thành một nhận xét về cha, có vẻ như vượt quá tuổi tác và trình độ học vấn của tôi lúc ấy. Đó là cha tôi tuy xuất thân Nho học nhưng tư tưởng rất mới, điều quan trọng hơn là ông đã dũng cảm đấu tranh với bất kỳ ai, với bất kỳ thế lực nào để bảo vệ lẽ phải và tiến bộ.
Vượt qua đoạn đường dài hơn 100 cây số từ Hải Phòng về Hà Nội, rồi từ bến xe Long Biên về 73 phố Thuốc Bắc, nơi cha tôi trút hơi thở cuối cùng trong căn phòng chưa đầy 10 mét vuông lúc nào cũng thiếu ánh sáng, nước mắt tôi trào ra, không cách gì ngăn được. Câu đối đầu tiên của đời tôi, buồn thay lại là câu đối khóc cha:
Lúc xã hội nhố nhăng, cúi chẳng cúi, luồn chẳng luồn, há chịu phép vú to lấp miệng
Khi văn chương nhập nhoạng, tranh ra tranh, cãi ra cãi, đâu đành lòng mũ nỉ che tai
Hồi ấy, cuộc đấu tranh chống Nhân văn – Giai phẩm mà cha tôi được coi là thủ lĩnh tuy đã hầu tàn nhưng dư chấn của nó vẫn còn rất mạnh, có lẽ chẳng thua gì một trận động đất mà cha tôi phải hứng chịu. Mọi lời nói hay luận bàn về ông trở thành điều cấm kỵ. Vì vậy, tôi tuy rất ưng ý với câu đối viếng ông mà mình vừa làm nhưng chẳng dám hé môi đọc cho ai nghe, kể cả với các anh chị tôi.
Vào ngày Trùng Cửu (9-9 âm lịch) năm Kỷ Mão (1999), tôi được một anh bạn đồng hương gửi tặng cuốn “Bảo An – đất và người” của Nhà xuất bản Đà Nẵng, do tập thể tác giả Phan Nam, Lương Ngọc Châu, Phan Văn Hường, Phan On biên soạn cùng với sự cộng tác của nhiều người là con cháu tộc Phan – Bảo An đang công tác ở mọi miền đất nước. Bên cạnh một số người thuộc hàng em hoặc con ông được vinh danh như các nhà cách mạng Phan Thanh, Phan Bôi, Phan Triêm, nhà báo Phan Thao; cuốn sách cũng đã dành một số trang giới thiệu tiểu sử và văn nghiệp của cha tôi, xem ông là nhà văn, nhà thơ, nhà trí thức lớn của quê hương mình. Đó là điều mà hơn bốn mươi năm về trước những ai từng đọc các bài phê phán ông không thể ngờ tới.
Tôi nhận ra tên tuổi, sự nghiệp cha tôi vẫn sống và sẽ còn ở lại lâu dài với quê hương, sông núi, với họ hàng, con cháu dù đã nhiều năm người ta cố lờ đi như ông chưa từng hiện diện trên đời. Tôi lại nhớ tới câu đối viết hồi ông qua đời và thế là đúng bốn mươi năm sau, tôi lại có thêm một câu đối khác cũng viết về ông. Lần này tôi viết bằng chữ Hán, với tâm trạng vui hơn nhưng vẫn thắc thỏm lo không chắc sẽ được số đông chấp nhận. Câu đối ấy như sau:
Phan công quyến tộc sơn hà tại
Việt quốc chương dân thế đại tồn
Dịch:
Cụ Phan gia quyến lưu sông núi
Non Việt dân văn tục vạn đời
Viết xong, tự tôi thấy còn non nớt, nhưng hai chữ Chương Dân, bút hiệu của cha tôi mà tôi dịch là Dân Văn vào câu đối là hình dung của tôi về ông như một nông phu, ngày đêm cặm cụi trên cánh đồng văn bút mà không chắc đã gặt hái được gì bởi quyền năng đâu phải lúc nào cũng thuộc về ông.
Năm 2011 tôi 71 tuổi, ngấp nghé cái tuổi ông qua đời, tôi lại có thêm một câu đối khác viết về ông. So với hồi năm 1959, lúc này tôi đã hiểu ông nhiều hơn vì không chỉ được đọc sách của người khác viết về ông như Nhớ cha tôi: ông Phan Khôi của Phan Thị Mỹ Khanh – chị gái tôi, Phan Khôi – tiếng Việt, Báo chí và thơ mới của Vu Gia, Quảng Nam – đất nước & nhân vật của Nguyễn Q. Thắng mà còn được đọc hàng ngàn bài báo của chính ông trong công trìnhPhan Khôi – tác phẩm đăngbáo của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân.
Tôi thật sự choáng ngợp và thán phục trước kho tri thức uyên bác, vừa có chiều rộng lại có chiều sâu mà ông sở hữu. Càng khâm phục hơn khi tôi biết kho tri thức đồ sộ ấy là do ông tự học, tự tích lũy gần như cả đời mà có. Tôi lại nhớ tới hai câu 5-6: Đầy bụng báng nhau trăm bộ sách, Còng lưng thồ nặng chín triều vua trong bàithơluật Đường ông viết hồi năm 1957, năm ông 70 tuổi, có tên là Bảy mươi tự thọ mà từ lâu tôi đã thuộc lòng. Thế là câu đối cứ tự nhiên mà ra, chẳng gặp bất cứ khó khăn nào, cứ như có ai đó cầm tay tôi mà viết giúp vậy:
Dẫu tự học, chỉ tự rèn cũng đầy bụng báng nhau trăm bộ sách
Lo dân sinh, vì dân chủ mà còng lưng thồ nặng chính triều vua
Sao lại là chín triều vua? Ngay từ hồi 1957, lần đầu tiên đọc bài thơ này tôi đã lấy làm lạ, tiếc là không dám hỏi thẳng ông. Vì như tôi biết, ông sinh năm 1887, cho tới khi chấm dứt chế độ phong kiến ở Việt Nam, cha tôi từ Quảng Nam ra Hà Nội rồi đi kháng chiến trên chiến khu Việt Bắc cũng chỉ mới qua năm đời vua là Đồng Khánh (1885-1888), Thành Thái (1889-1907), Duy Tân (1907-1916), Khải Định (1916-1925), Bảo Đại (1926-1945). Mãi tới năm 1965, khi làm thư mục cho số sách vở, tài liệu, di cảo của ông để lại, tôi mới thôi không thắc mắc nữa.
Ấy là nhờ tôi đọc bài Những con số không nhất định trongtừ ngữ trong số di cảo của ông viết gần một năm trước khi mất. Trong bài khảo cứu này, ông cho biết số chín trong từ ngữ nào có số chín không nhất định là để chỉ “số rất nhiềutrong các số cơ bản”, như “chín tầng trời, chín nghìn anh em” là để chỉrấtnhiều tầng trời, rấtnhiều anhem. Nó khác hẳn với số chín nhất định như nóithiều quang chín chục là chỉ chín chụcngày mùa xuân, đi bốn biển chín châu là đi cả bốn biển chín châu theo cách người Trung Quốc xưa phân chia đơn vị hành chính của nước họ. Vì vậy mà chín triều vua trong còng lưng thồ nặng chín triều vua là đểchỉ ông đã phải sống qua rất nhiều triều vua, không có ý gì khác, cũng chẳng định ám chỉ ai hoặc bất cứ điều gì.
Ấy vậy mà hồi ấy người ta bảo ông muốn ám chỉ chế độ dân chủ cộng hòa cũng chẳng khác gì chế độ quân chủ chuyên chế của các triều đại phong kiến ngày trước (!). Hai câu kết bài thơ Giật mình trước mắt nền dân chủ, Hất cái bia đi kẻo trái mùa vì thếcũng chẳng hề có ý định lật đổ hay gì gì đó như hồi ấy người ta gán cho ông. Có chăng đó chỉ là thiện chí muốn gột rửa ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, thực dân; tự đổi mới mình cho hợp với thời đại mới, thời đại tândân chủ dự bị đi lên chủ nghĩa xã hội như cách ông gọi trong bảnTự kiểm thảo ở đợt chỉnh huấn tại Việt Bắc hồi năm 1953 mà gia đình còn giữ được.
Vậy mà một vị nhà văn nọ đã họa bài thơ với những từ ngữ hết sức khó nghe mà người đọc có chút lương tri chắc chắn phải xấu hổ thay. Đây chẳng phải là lần đầu ông bị nghi ngờ. Trước đó cũng đã vài lần ông bị nghi oan đến nỗi phải kêu lên: Tôi sao lại có tâm địa xỏ lá đến nỗi mỗi khi nói phải có ám chỉ ai mới được? Hóa ra câu cửa miệng muốn nói oan… lưu truyền trong dân gian bao đời nay thời nào cũng đúng vậy!
“Nắng được thì cứ nắng”
Đầu năm 2013, tôi nhận được tin vui. Bản thảo Nắng được thì cứ nắng của Phan An Sa, em trai tôi, kể lại cuộc hành trình 23 năm cuối đời của cha tôi, từ lúc là chủ nhiệm báo Sông Hương, qua chủ nhiệm báo Nhân Văn do Nhà xuất bản Tri Thức ấn hành sẽ ra mắt độc giả. Cuốn sách dày gần 700 trang, khổ 16 x 24cm này tôi đã được đọc từ khi nó còn là bản thảo. Rồi đây những góc khuất trong cuộc đời cha tôi sẽ được trở ra ánh sáng. Những gì mà một thời người ta viết về ông, làm cho con người và văn nghiệp của ông bị xô lệch, méo mó đi sẽ được nhìn nhận lại một cách khách quan và công bằng hơn.
Mấy ngày sau, tôi lại được xem tập phim tư liệu Con mắt còn có đuôi trên trang Phóng sự – tài liệu của Đài phát thanh – truyền hình Đà Nẵng. Những điều mà bộ phim nói tới là sự khẳng định rất có ý nghĩa tên tuổi và những đóng góp của ông cho quê hương, đất nước; thể hiện cách nhìn, cách đánh giá mới của nhân dân, trong đó có giới trí thức, nhà văn, nghệ sĩ đối với con người và sự nghiệp văn chương của cha tôi.
Càng vui, tôi lại càng ngậm ngùi khi có thời gian nhìn lại và suy ngẫm về cuộc đời ông. Sao lại có người như cha tôi, suốt một đời đi tìm cái mới cho đất nước, cho khoa học, có khi dấn thân vào cả chốn hiểm nguy, lại một thời gian dài chẳng được ai hiểu cho, mãi tận cuối đời vẫn phải sống trong cô đơn, cô đơn ngay trong chính gia đình của mình? Phải chăng cuộc đời này đã không công bằng, đã quá nghiệt ngã với ông? Hỏi ông còn biết sống với ai, hay cái chết mới chính là sự giải thoát? Năm nay, vào dịp 54 năm ngày ông qua đời, tôi viết câu đối thứ tư dâng lên hương hồn ông:
Đi kháng chiến, đuổi thực dân, tội phản động về cùng chín suối
Đón văn minh, khai dân trí, gương duy tân ở với trời xanh!
Nguồn: http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/van-hoc-sach/20130317/cha-toi—ong-phan-khoi/538416.html
19.06.2015
Posted by Trần Ngọc Luyện |
Bài viết, Văn học - Nghệ thuật | phankhoi, phannamsinh |
Bình luận về bài viết này
Trong giới cầm bút Việt Nam tại Úc cũng như ở hải ngoại nói chung, nhiều người vừa sáng tác vừa dịch thuật. Hỏi lý do, nhiều người đáp: dịch để học hỏi. Nhưng theo tôi, đó không phải là lý do chính: Người ta có thể học hỏi về tư tưởng và kỹ thuật viết lách bằng cách đọc thẳng từ trong nguyên tác chứ không nhất thiết phải dịch sang tiếng Việt.
Theo tôi, khi quyết định dịch một tác phẩm văn học từ một ngôn ngữ nào đó sang tiếng mẹ đẻ của mình, có lẽ người ta xuất phát từ một nhu cầu muốn ngắm nghía cái đẹp của tác phẩm ấy từ góc độ tiếng mẹ đẻ của mình. Nhu cầu ấy ở đâu cũng có, nhưng trong môi trường song ngữ có lẽ nó dễ nẩy nở hơn. Tôi mường tượng: Đọc một bài thơ tiếng Anh, người ta thấy hay, từ đó, nảy sinh ra một thắc mắc: những cái hay ấy sẽ như thế nào nếu được chuyển dịch sang tiếng Việt? Từ thắc mắc đến hành động dịch thực sự, người ta đối diện với một thử thách mới: đi tìm cái tương đương. Trong nhiều trường hợp, với tiếng Anh: người ta hiểu; với tiếng Việt: người ta biết; nhưng người ta lại không thể, hoặc mất rất nhiều thì giờ để có thể, tìm ra điểm nối giữa cái điều người ta hiểu và cái điều người ta biết, từ đó, tìm ra được một cách dịch có thể chấp nhận được.
Tôi dùng chữ “có thể chấp nhận được” chứ không phải chữ “hoàn hảo”. Không bao giờ có bản dịch hoàn hảo. Jacques Derrida cho “một mặt, không có gì không dịch được, nhưng mặt khác, mọi thứ đều không thể dịch; dịch là tên gọi khác của sự bất khả” (1). Lý do là vì không có sự tương đương tuyệt đối. Theo Umberto Eco, “từ góc độ thơ, không có trường hợp nào mà hai cách nói khác nhau có thể được xem là tương đương.” (2) Giữa ngôn ngữ này và ngôn ngữ khác bao giờ cũng có những độ lệch nhất định.
Theo tôi, có mấy độ lệch chính. Một, lệch ở từ vựng: Mỗi ngôn ngữ có một hệ thống từ vựng phản ánh một cách chia cắt thế giới riêng. Hai, lệch ở cú pháp: Cú pháp không phải chỉ là một cách tổ chức câu mà còn là một cách phạm trù hoá hiện thực. Ba, lệch ở tu từ: Mỗi ngôn ngữ có những cách biện pháp tu từ, từ cách điệp âm, điệp vần đến cách so sánh, ẩn dụ và hoán dụ, vừa giống lại vừa không giống nhau hẳn. Bốn, lệch ở tính liên văn bản: Mỗi từ và mỗi ẩn dụ đều có tính lịch sử, ở đó, nó có cuộc sống riêng với các quan hệ với nhiều từ và nhiều ẩn dụ khác, từ đó, nó được vây bọc bởi một khí quyển riêng và gợi lên những trường liên tưởng riêng.
Trong văn học, đặc biệt trong thơ, ngôn ngữ còn có một đặc điểm nữa: tính nhạc điệu. Nhạc điệu nằm, một phần, trong bản thân từng từ, phần khác, nhiều hơn, ở sự kết hợp của các từ. Chuyển từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, dù muốn hay không, người ta cũng phá vỡ sự kết hợp ấy, do đó, cũng phá vỡ nhạc tính của câu hay của đoạn, và từ đó, của cả bài. Với các độ lệch trên, người ta có thể tìm cách bù trừ được. Với nhạc điệu, khi dịch, người ta chỉ có hai lựa chọn và lựa chọn nào cũng bất toàn: hoặc bỏ hẳn (chỉ giữ ý) hoặc thay thế bằng một thứ nhạc điệu khác tương ứng trong ngôn ngữ đích (target language).
Thay thế, thật ra, cũng là một hình thức sáng tạo. Chính vì thế Octavio Paz mới cho “chỉ các nhà thơ mới nên dịch thơ; [nhưng] trên thực tế, các nhà thơ hiếm khi là dịch giả giỏi. Họ hầu như chỉ dùng bài thơ ngoại quốc như một điểm khởi đầu cho một bài thơ riêng của họ.” (3) Cũng chính vì thế, nhiều người cho văn học, đặc biệt là thơ, không thể dịch được. Nhưng ở đây lại có một nghịch lý: Biết là không thể dịch được, nhưng người ta vẫn phải dịch. Khi trên thế giới có cả mấy ngàn ngôn ngữ khác nhau, trong đó, có cả mấy chục ngôn ngữ có truyền thống thi ca lớn, những mất mát do việc từ chối dịch hoặc đọc các bản dịch thơ chắc chắn là lớn hơn việc chấp nhận các bản dịch thơ bất toàn rất nhiều.
Dịch, do đó, vừa là điều cần thiết vừa là một quyết định đối diện với cái bất khả. Dịch, cũng do đó, là một cách chấp nhận những giới hạn, không những giới hạn của ngôn ngữ mà còn những giới hạn của chính mình: Với công việc dịch, người ta đi từ kinh nghiệm về cái bất khả đến kinh nghiệm về sự bất toàn. Trước những giới hạn ấy, người ta phải biết tương nhượng: nhường cái này để đạt được cái khác. Các lý thuyết dịch thuật thường nêu lên hai kiểu tương nhượng chính: hoặc chọn con đường “ngoại hoá” (foreignization), tức giữ nguyên phong cách và sau nó, văn hoá của văn bản gốc (source-oriented), hoặc “nội hoá” (domestication) nó để phù hợp với văn hoá đích và với thị hiếu thẩm mỹ của những người tiếp nhận bản dịch (target-oriented).
Cần lưu ý, nói theo Umberto Eco, với mỗi văn bản, người ta cần có một giải pháp riêng (4) chứ không có nguyên tắc chung nhất và bất biến nào để căn cứ vào đó, dịch giả lựa chọn cả. Hắn phải quyết định ngả theo hướng này hoặc hướng khác tuỳ từng trường hợp cụ thể. Trong trường hợp nào thì dịch cũng là một cách đánh đu giữa hai ngôn ngữ và, hơn nữa, giữa hai văn hoá. Công việc đánh đu ấy, ở người mới bắt đầu dịch, khá ì ạch; ở người giỏi và giàu kinh nghiệm, thoải mái hơn; nhưng với ai thì bản chất của vấn đề vẫn là một: Dịch, một mặt, là tiến hành một cuộc đàm phán văn hoá, ở đó, người ta đối chiếu hai ngôn ngữ ở những khía cạnh và những góc độ khác nhau để lựa chọn một cách dịch được xem là tối ưu; mặt khác, như là hệ quả của sự đàm phán ấy, dịch trở thành một động tác xuyên ngôn ngữ, xuyên văn hoá, và thậm chí, xuyên quốc gia.
Nguồn: http://m.voatiengviet.com/a/dich-thuat-di-tim-su-tuong-duong/2747901.html
08.06.2015
Posted by Trần Ngọc Luyện |
Bài viết | dichthuat, nguyenhungquoc |
Bình luận về bài viết này